Suy thận mạn là hôi chứng thận mất dần chức năng vĩnh viễn theo thời gian. Với những suy thận giai đoạn nhẹ, điều trị chủ yếu là điều trị bảo tồn. Mục đích của điều trị bảo tồn là đảm bảo cho người bệnh giữ được chức năng thận với thời gian dài nhất có thể được, nhờ vào giữ hằng định nội môi mặc dù người bệnh có giảm chức năng thận. Với những bệnh nhân suy thận giai đoạn đều,, phương pháp điều trị bảo tồn được đặt lên hàng đầu, bao gồm việc sử dụng các thuốc giúp kiểm soát nguyên nhân, triệu chứng kết hợp với chế độ dinh dưỡng hợp lý. Điều trị bảo tồn có ý nghĩa rất lớn trong tiến trình làm chậm sự tiến triển của bệnh suy thận mạn.

Mục tiêu của điều trị bảo tồn suy thận

+ Cần phải làm chậm tiến triển của suy thận,

+ Giảm thiểu sự tích lũy của urê và những độc tố thuộc urê,

+ Kiểm soát tốt tăng huyết áp, 

+ Ngăn ngừa xơ vữa và ảnh hưởng trên tim mạch của nó,

+ Giữ được cân bằng nước điện giải và calciphospho.

+ Tránh sự thiếu dinh dưỡng và giữ gìn tốt hơn chất lượng sống của người bệnh.

Ðiều trị bảo tồn bao gồm những biện pháp tiết thực và thuốc, những biện pháp này cần phải thực hiện ở giai đoạn sớm để cho phép bệnh nhân tránh những biến chứng.

Làm chậm tiến triển của suy thận mạn

Ngoài điều trị nguyên nhân dẫn đến suy thận mạn. Hiên nay có các can thiệp được đưa ra nhằm làm chậm tối đa tiến triển của các bệnh thận mạn là:

- Kiểm soát có hiệu quả huyết áp.

- Sử dụng thuốc ức chế men chuyển hoặc chẹn thụ thể của angiotensine II.

- Chế độ ăn hạn chế Protide.

- Kiểm soát có hiệu quả đường huyết ở những bệnh nhân đái tháo đường.

2.1.1 Điều trị tăng huyết áp.

- Những nghiên cứu lâm sàng được thực hiện cho đến nay đã cho kết luận rằng khi kiểm soát tốt tăng huyết áp sẽ làm chậm rất hiệu quả diễn tiến của các bệnh thận mạn.

- Những khuyến cáo hiện nay là giữ huyết áp của bệnh nhân suy thận mạn ở mức:

 + Dưới 130 / 85 mm Hg khi prôtêin niệu dưới 1 g / 24 giờ.

 + Dưới 125 / 75 mm Hg khi prôtêin niệu trên hoặc bằng 1 g / 24 giờ.

2.1.2. Dùng thuốc chẹn hệ thống Rénin - Angiotensine.

+ Ở những bệnh nhân đái tháo đường typ 1 có prôtêin niệu cần được điều trị bằng thuốc ức chế men chuyển.
 + Ở những bệnh nhân đái tháo đường typ 2 có prôtêin niệu cần được điều trị bằng thuốc chẹn thụ thể của angiotensine II.

  Cho đến hiện nay, liều lượng tối ưu của các thuốc chẹn hệ thống Rénin - Angiotensine vần còn là câu hỏi chưa có câu trả lời thoả đáng. Những thuốc trong nhóm này ngoài tác dụng hạ huyết áp còn làm giảm mức độ lọc prôtêin niệu. Prôtêin niệu lại đóng vai trò chủ yếu trong tiến triển bệnh lí thận.Vì thế liều lượng các thuốc chẹn hệ thống Rénin - Angiotensine phải được sử dụng thích hợp không những kiểm soát được huyết áp mà còn làm giảm tối đa prôtêin niệu.

2.1.3. Hạn chế protide:

 Phân tích những nghiên cứu lâm sàng đã xác nhận rằng hạn chế prôtide cho phép làm chậm tiến triển của suy thận mạn. Vì vậy, yêu cầu một chế độ prôtide từ 0,8 đến 1g/kg/ngày ở những bệnh nhân có độ lọc cầu thận dưới 60 ml/phút. Nhưng khẩu phần hạn chế prôtide này phải có calori đầy đủ (30 đến 35 kcal/kg/ngày).  

2.1.4. Dự phòng những nguyên nhân của suy thận cấp: cần phải loại bỏ các yếu tố thuận lợi của suy thận cấp trên những đối tượng này.  

Điều trị những biến chứng của suy thận mạn

2.2.1 Điều trị thiếu máu:

Gần đây việc điều trị thiếu máu ở bệnh nhân Suy thận mạn đã có những tiến bộ đáng kể trong thập niên vừa qua nhờ vào sản xuất ra Erythropoeétine tái tổ hợp (r -HuEPO). Trước năm 1989 điều trị thiếu máu chỉ được áp dụng bằng truyền máu và từ đó nguy cơ tích lũy sắt và nhiễm các bệnh virus và đặc biệt là viêm gan siêu vi C. Các chế phẩm thường dùng là EPREX, EPOKIN và RECORMON được sử dụng bằng đường tiêm dưới da với bơm tiêm tự động, cho phép người bệnh có thể tự thực hiện.
 Điều chỉnh thiếu máu cần phải từ từ để tránh xuất hiện hoặc gia tăng huyết áp, liều lượng tấn công trung bình là 50 đến 70 đơn vị/kg/tuần bằng 2 lần tiêm. 

2.2.2 Điều trị những rối loạn Calci - phospho.

  Dự phòng hạ calci máu, tăng phospho máu và tăng họat tuyến cận giáp thứ phát là một biện pháp cơ bản của điều trị suy thận mạn. Dự phòng này là cần thiết để tránh những thương tổn gây rối loạn xương do thận và mất muối khoáng xương.Hiện nay những rối loạn calci-phospho có thể được ngăn ngừa hoàn toàn với điều kiện điều trị được thực hiện sớm ngay suy thận giai đoạn đầu.Mục đích của điều trị là giữ canxi máu giữa 2,3 và 2,5 mmol/l (không vượt quá giới hạn này) và phốtpho máu dưới 1,7 mmol/l Mặt khác tỷ lệ hocmon cận giáp PTH cần thiết phải được giữ ở mức lý tưởng ở bệnh nhân suy thận mạn là giữa 100 và 200 pg/ml  

2.2.3. Điều trị toan máu:

 Toan máu là một hậu quả tương đối sớm của suy thận mạn, do giảm khả năng đào thải ion H+ qua đường thận. Ở những bệnh nhân suy thận mạn, cần được điều chỉnh tỷ lệ bicarbonate máu trên 22 mmol/l bằng cách bổ sung bằng Natri bicarbonate.

2.2.4. Điều trị tăng kali máu: Điều trị tăng kali máu mức độ trung bình bao gồm:

 + Hạn chế các thức ăn nhiều kali.

 + Dùng Kayexalate, Bicarbonate Natri. 

 + Ngừng các thuốc gây tăng kali máu (thuốc lợi tiểu giữ Kali…)

2.2.5. Những biến chứng khác:

Những biến chứng khác của suy thận mạn thường đến muộn khi mức lọc cầu thận dưới 15ml/phút, cần thiết phải điều trị là:

+ Suy dinh dưởng.

+ Những rối loạn tiêu hóa như chán ăn, buồn nôn, nôn mữa. Viêm dạ dày là thường gặp ở bệnh nhân suy thận mạn.

+ Viêm màng ngoài tim, có thể chèn ép tim.

+ Bệnh lí thần kinh ngoại biên loại viêm đa dây thần kinh.

+ Giảm đáp ứng miễn dịch: cần tiêm chủng vaccin sớm nhất là Viêm gan siêu vi B.

+ Rối loạn chức năng đông máu: kéo dài thời gian chảy máu.

Điều trị những yếu tố nguy cơ tim mạch

 Những bệnh nhân suy thận mạn thường là những bệnh nhân có nguy cơ rất cao về bệnh lí tim mạch. Cần phải điều trị một cách triệt để các bệnh lí tăng huyết áp, rối loạn lipid máu, đái tháo đường, nghiện thuốc lá, béo phì.

Chuẩn bị điều trị thay thế thận suy

+ Tạo đường mạch máu để lọc máu ngoài thận.

+ Giáo dục người bệnh về các thông tin của điều trị thay thế thận suy

+ Đề phòng một số nhiễm trùng bằng Vaccin: uốn ván, viêm gan B, phế cầu...