Bệnh thận tiến triển âm thầm do đó khi các triệu chứng của suy thận biểu hiện ra bên ngoài thường thì chức năng thận chỉ còn khoảng 10 – 15%. Việc phát hiện và chẩn đoán suy thận phải thông qua các xét nghiệm đánh giá chức năng thận.Bất cứ ai có nguy cơ dẫn tới suy thận mạn tính cần chú ý khám, đánh giá chức năng thận định kỳ 6 tháng/lần để phát hiện suy thận mạn sớm.

c tiểu, máu, và các xét nghiệm hình ảnh (chụp x-quang) được sử dụng để phát hiện bệnh thận, cũng như để theo dõi sự tiến bộ của căn bệnh.

Tất cả các xét nghiệm này đều có giới hạn. Chúng thường được sử dụng chung với nhau để cho ra một hình ảnh về tính chất và mức độ của bệnh thận.

Nói chung, tiến trình xét nghiệm này có thể được thực hiện trên một nền tảng căn bản của người bệnh ngoại trú (bạn không phải nằm trong bệnh viện)

Các xét nghiệm nước tiểu

Phân tích nước tiểu: Phân tích nước tiểu cung cấp sự sự hiểu biết sâu sắc rất lớn về chức năng của thận. Bước đầu tiên trong xét nghiệm nước tiểu là làm một kiểm tra dùng que thử nước tiểu (dipstick test).

Que thử nước tiểu có phản ứng hóa học để kiểm tra nước tiểu về sự hiện diện khác biệt của các thành phần bình thường và bất thường bao gồm cả protein. Sau đó, nước tiểu được khảo sát dưới kính hiển vi để tìm tế bào hồng huyết cầu và bạch huyết cầu, và sự hiện diện của các phôi và các tinh thể (chất rắn).
Chỉ số lượng tối thiểu của albumin (protein) hiện diện trong nước tiểu bình thường . Một kết quả dương tính trên que thử nước tiểu về protein là sự bất thường. Nhạy bén hơn que thử nước tiểu về protein là sự ước tính trong phòng thí nghiệm về chất albumin (protein) và chất creatinin trong nước tiểu. Tỷ lệ albumin (protein) và creatinin trong nước tiểu cung cấp một ước lượng tốt về chất albumin (protein) được bài tiết mỗi ngày.

Thử nghiệm nước tiểu trong 24h: Xét nghiệm này đòi hỏi bạn phải thu thập tất cả các nước tiểu của bạn trong 24 giờ liên tục. Nước tiểu có thể sẽ được phân tích về protein và chất thải (urê, nitơ, và creatinin).

Sự hiện diện của chất đạm trong nước tiểu cho thấy sự tổn thương thận. Số lượng creatinin và urê (urea) được bài tiết trong nước tiểu có thể được dùng để tính toán mức độ chức năng thận và tỷ lệ lọc cầu thận (GFR).

Tỷ lệ lọc cầu thận: Tỷ lệ lọc cầu thận (GFR) là một giá trị trung bình tiêu chuẩn thể hiện chức năng toàn thể của thận.

Khi bệnh thận phát triển, GFR giảm nhanh. GFR bình thường là khoảng 100-140 ml / phút ở đàn ông và 85-115 ml/ phút ở phụ nữ. GFR bình thường là khoảng 100-140 ml / phút ở đàn ông và 85-115 ml/ phút ở phụ nữ.

Nó giảm trong hầu hết những người có tuổi. CFR có thể tính toán từ số lượng các sản phẩm chất thải trong 24-giờ- nước tiểu hoặc bằng cách sử dụng các dấu hiệu đặc biệt điều hành hành bởi tĩnh mạch. Người bệnh được chia thành năm giai đoạn của bệnh thận mãn tính dựa trên GFR của họ .

Các xét nghiệm máu

Creatinine và urea (Bun) trong máuLượng nitrogen urea trong máu (Blood urea nitrogen = BUN) và creatinine trong huyết thanh (creatinine serum) những xét nghiệm máu thường sử dụng nhất để quan sát và theo dõi bệnh thận.

Creatinine là một "phân tử" (a breakdown product) của sự phân chia các cơ bắp bình thường. Urea là sản phẩm chất thải của phân chia nhỏ protein. Mực độ các chất này tăng trong máu khi chức năng năng thận trở nên xấu đi .

Ước tính GFR: Nhân viên phòng thí nghiệm hoặc chuyên gia của bạn có thể tính ra một số lượng ước đoán về GFR bằng cách sử dụng thông tin từ hoạt động máu của bạn.

Thật là quan trọng để nhận thấy được một số lượng ước đoán về GFR của bạn và giai đoạn của bệnh thận mãn tính. Chuyên gia của bạn sẽ đựa vào giai đoạn bịnh thận của bạn để cho lời khuyên cần những thử nghiêm bổ xung nào và gợi ý về sự chăm sóc ra sao. 

Những mức điện phân và sự cân bằng: Rối loạn chức năng thận gây ra sự mất cân bằng trong điện giải, đặc biệt là potassium, phosphorus, và calcium. Cao potassium (hyperkalemia) là một mối quan tâm đặc biệt. Sự cân bằng acid-base trong máu thường cũng bị phá vỡ theo.

Sự giảm sản xuất về các dạng hoạt động của vitamin D có thể gây ra mức độ thấp calcium trong máu. Sự mất khả năng bài tiết/ sa thải phosphorus do suy thận thường gây ra mức độ phosphorus trong máu tăng. Mức độ hormone (hooc-mon) của tinh hoàn hay buồng trứng cũng có thể là bất thường.

Đếm tế bào máu: Bởi vì bệnh thận gây gián đoạn sự sản xuất tế bào máu và rút ngắn sự sống còn của các hồng huyết cầu, sự đếm tế bào hồng huyết cầu và hemoglobin có thể thấp (thiếu máu = anemia).

Một số người bệnh cũng có thể bị thiếu sắt do mất máu trong hệ tiêu hóa của họ. Những thiếu hụt dinh dưỡng khác cũng có thể làm giảm việc sản xuất các tế bào hồng cầu .

Một số xét nghiệm khác

Siêu âm: Siêu âm thường được sử dụng trong chẩn đoán bệnh thận. Siêu âm là 1 loại thử nghiệm không xâm phạm. Nói chung, thận bị thu nhỏ kích thước ở bệnh thận mãn tính, mặc dù thận có thể là bình thường hoặc thậm chí có kích thước lớn trong các trường hợp gây ra bởi người lớn mắc bệnh thận đa u nang (polycystic), thận tiểu đường (diabetic nephropathy), và thoái hóa Amyloid protein (amyloidosis). Siêu âm cũng có thể được dùng để chẩn đoán sự hiện diện của tắc nghẽn đường tiết niệu, sỏi thận và cũng để đánh giá lưu lượng máu vào thận.

Sinh  thiết: Một mẫu của mô thận (sinh thiết) đôi khi được yêu cầu trong trường hợp mà nguyên nhân gây ra các bệnh thận không rõ ràng. Thông thường, sinh thiết có thể được thu thập với sự gây tê khu vực để chỉ đưa kim qua da vào thận. Việc này thường được thực hiện như một tiến trình cho bịnh nhân ngoại trú, mặc dù một số cơ sở có thể yêu cầu bịnh nhân ở lại bệnh viện qua đêm.